Tác giả: Fuxian Yi
Các nhà lãnh đạo phương Tây đang cùng nhau đổ lỗi cho Trung Quốc về tình trạng dư thừa công suất, trong khi Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gần đây đã chủ trì một cuộc họp của Bộ Chính trị, đưa vấn đề việc làm cho thanh niên lên hàng đầu trong chính sách. Nguyên nhân gốc rễ của hai vấn đề này có thể bắt nguồn từ chính sách một con.
THU NHẬP HỘ GIA ĐÌNH THẤP
Việc duy trì mức huyết áp và hàm lượng oxy trong máu ở mức tối ưu trong cơ thể con người rất quan trọng, vì sai lệch có thể dẫn đến bệnh tật hoặc thậm chí tử vong. Tương tự, người lao động và người tiêu dùng trong một nền kinh tế cũng cần được cân bằng. Thu nhập khả dụng của hộ gia đình thường chiếm hai phần ba GDP của một quốc gia để duy trì mức tiêu dùng của hộ gia đình ở mức 50–65% GDP, như trường hợp của Trung Quốc vào đầu những năm 1980.
Trẻ em có sức mua đáng kể vì việc chi tiêu cho con cái là bản năng của cha mẹ. Tuy nhiên, chính sách một con của Trung Quốc đã dẫn đến số lượng trẻ em ít hơn, giảm tỷ lệ phụ thuộc chung – tỷ lệ người dưới 15 tuổi hoặc trên 64 tuổi so với những người từ 15 đến 64 tuổi – và cho phép các gia đình có thu nhập hộ gia đình thấp hơn có thể trang trải cuộc sống. Giống như một con ếch từ từ bị đun nóng trong nước, thu nhập hộ gia đình của Trung Quốc tính theo tỷ lệ GDP đã giảm đáng kể xuống mức hiện tại là 44%, dẫn đến tiêu dùng hộ gia đình giảm xuống còn 37% GDP, so với 68% ở Hoa Kỳ, 61% ở Ấn Độ và 55% ở Việt Nam.
Trung Quốc đã phải trả giá bằng sự sụp đổ dân số.
Phương Tây đang bối rối trước thực tế rằng bất chấp bốn thập kỷ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, Trung Quốc không đạt được sự chuyển đổi dân chủ như phương Tây kỳ vọng khi đón nhận Trung Quốc vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2001, mà lại đang thụt lùi trên mọi mặt. Trung Quốc đã đi theo con đường này do di sản của chính sách một con, duy trì thu nhập hộ gia đình quá thấp để phát triển một tầng lớp trung lưu có khả năng gây áp lực lên chính phủ, và dẫn đến sự sụt giảm mạnh về số lượng thanh niên trong độ tuổi từ 15 đến 29, lực lượng tiên phong của các cuộc cải cách dân chủ hóa.
Tại Đài Loan và Hàn Quốc, tỷ lệ dân số trẻ đạt đỉnh 31% vào đầu những năm 1980, tạo ra làn sóng nhiệt tình ủng hộ dân chủ hóa. Khi các quốc gia này trở thành nền dân chủ vào năm 1987, độ tuổi trung bình ở cả hai nền kinh tế chỉ là 26. Tương tự, khi tỷ lệ thanh niên ở Trung Quốc đạt đỉnh 31% (với độ tuổi trung vị là 25), đã có một phong trào dân chủ lớn mà đỉnh cao của nó là cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn năm 1989. Tuy nhiên, tỷ lệ thanh niên hiện nay đã giảm xuống còn 16%, độ tuổi trung bình tăng lên 43, và đất nước đã bước vào thời kỳ trung niên chính trị sau thời kỳ thanh niên chính trị của năm 1989.
DƯ THỪA CÔNG SUẤT
Tài sản của Trung Quốc nằm không cân xứng trong tay chính phủ, các doanh nghiệp và nhà đầu tư, điều này làm cho các doanh nghiệp cạnh tranh hơn và giúp chính phủ có nhiều nguồn lực tài chính hơn để trợ cấp cho công nghiệp và đầu tư vào cơ sở hạ tầng (như đường sắt cao tốc) và Sáng kiến Vành đai và Con đường.
Sự thiếu hụt tiêu dùng của Trung Quốc bị làm cho trầm trọng hơn do các mạng lưới an sinh xã hội yếu kém.
Việc thiếu hụt tiêu dùng của Trung Quốc càng trở nên nghiêm trọng hơn bởi các mạng lưới an sinh xã hội yếu kém. Năm 2022 chẳng hạn, chỉ có chưa đến một phần ba số người lao động tham gia vào bảo hiểm thất nghiệp, và chỉ một phần tư số người thất nghiệp ở thành thị thực sự nhận được trợ cấp. Hơn một nửa số người hưởng lương hưu, chủ yếu là người cao tuổi ở nông thôn, chỉ nhận được trung bình 205 nhân dân tệ (30 USD) mỗi tháng. Thế hệ con một rõ ràng không thể hỗ trợ cha mẹ của họ khi về già. Vì vậy, Trung Quốc có tỷ lệ tiết kiệm cao nhất thế giới và do đó cũng có tỷ lệ đầu tư cao nhất.
Trên toàn cầu, phụ nữ có sức mua lớn hơn nhiều so với nam giới. Nhiều thập kỷ phá thai chọn lọc ở Trung Quốc đã dẫn đến tình trạng thiếu hụt người tiêu dùng nữ trẻ và khủng hoảng “ế vợ”. Điều tra dân số năm 2020 cho thấy tỷ lệ giới tính ở độ tuổi kết hôn lần đầu (28-32 đối với nam và 26-30 đối với nữ) cao tới 125, với 134 ở các khu vực nông thôn. Nhiều gia đình có con trai đơn giản là không dám chi tiêu, thay vào đó, họ tiết kiệm để trả tiền thách cưới cao và mua căn hộ tân hôn.
Tiêu dùng nội địa không đủ đã khiến Trung Quốc dư thừa khoảng 100 triệu lao động, cùng với các khoản trợ cấp công nghiệp và tỷ lệ đầu tư cao, dẫn đến tình trạng dư thừa công suất. Trong những năm gần đây, ngành bất động sản của Trung Quốc đã chìm trong khủng hoảng nợ, đẩy công nhân xây dựng vào ngành sản xuất, làm trầm trọng thêm tình trạng dư thừa công suất. Ví dụ, vào năm 2023, Trung Quốc sản xuất 30 triệu xe và xuất khẩu 5 triệu chiếc. Nếu thu nhập hộ gia đình tăng lên mức bình thường là hai phần ba GDP, người tiêu dùng trong nước có thể mua hết số xe này mà không cần phải xuất khẩu, và Trung Quốc có thể nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn.
TỈ LỆ THẤT NGHIỆP CAO Ở GIỚI TRẺ VÀ TỈ LỆ SINH THẤP
Trung Quốc luôn theo đuổi thặng dư thương mại để tiêu thụ công suất dư thừa, ba phần tư trong số đó trong giai đoạn 2001–2018 là với Hoa Kỳ, điều này đã giúp tạo ra hàng chục triệu việc làm cho Trung Quốc. Trong khoảng thời gian từ 2001 đến 2018, lượng hàng hóa mà Trung Quốc nhập khẩu từ Hoa Kỳ chỉ chiếm 23% lượng hàng hóa mà Trung Quốc xuất khẩu sang Hoa Kỳ, khi so với tỷ lệ 72% đối với các hoạt động thương mại của Hoa Kỳ với phần còn lại của thế giới.
Mặc dù hoạt động thương mại mất cân bằng quá mức này đã giúp thị trường trái phiếu Mỹ và người dân Mỹ hưởng lợi từ giá cả thấp và lạm phát thấp, nhưng nó cũng làm suy yếu ngành sản xuất của Mỹ và chia rẽ xã hội. Tỷ lệ giá trị gia tăng từ sản xuất của Mỹ trong tổng giá trị sản xuất thế giới đã giảm từ 25% vào năm 2001 xuống còn 16% vào năm 2021, trong khi tỷ trọng của Trung Quốc tăng từ 4% năm 1991 lên 31% vào năm 2022. Có thể nói, Hoa Kỳ là nạn nhân lớn thứ hai của chính sách một con của Trung Quốc. Các hạt thuộc ‘Vành đai Rỉ sét (Rust Belt)’ là những nơi chịu thiệt hại nhiều nhất và họ đã đưa Donald Trump lên làm tổng thống vào năm 2016.
Trung Quốc đã phải trả giá đắt cho công suất dư thừa của mình dưới hình thức sụp đổ dân số. Cả hai chính sách hai con và ba con đều thất bại thảm hại, vì các gia đình bình thường không đủ khả năng nuôi dưỡng ngay cả một đứa con do thu nhập hộ gia đình quá thấp. Mặc dù đã có những biện pháp khuyến khích sinh con, tỷ lệ sinh trong năm ngoái chỉ đạt 1,0 trên toàn quốc và 0,6 ở một số tỉnh, mức thấp nhất thế giới.
Khi các quốc gia khác đạt đến tỷ lệ nhập học bậc đại học như Trung Quốc hiện tại, khu vực dịch vụ đã cung cấp 70–80% việc làm. Tuy nhiên, do tiêu dùng yếu kém, khu vực dịch vụ của Trung Quốc chỉ cung cấp 45% việc làm, khiến cho sinh viên tốt nghiệp đại học, những người chủ yếu làm việc trong ngành dịch vụ, khó tìm được việc làm, dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp cao ở giới trẻ cùng với sự sụt giảm tỷ lệ kết hôn và sinh con.
Cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung mà tôi đã dự đoán vào năm 2009 cuối cùng đã nổ ra vào năm 2018, dẫn đến việc giảm đáng kể thâm hụt thương mại của Trung Quốc với Hoa Kỳ, làm trầm trọng thêm áp lực thất nghiệp ở Trung Quốc.
TRUNG QUỐC Ở GIAO LỘ
Tình trạng dư thừa công suất của Trung Quốc sẽ không kéo dài mãi mãi, vì ngành sản xuất của nước này sắp đi theo con đường suy thoái của Nhật Bản. Sự kết hợp giữa Thỏa ước Plaza năm 1985, lực lượng lao động suy giảm và cơ cấu dân số già hóa đã làm giảm tỷ lệ hàng hóa Nhật Bản trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Mỹ từ 22% vào năm 1985 xuống chỉ còn 5% vào năm 2022, kéo theo sự sụt giảm trong thị phần xuất khẩu sản xuất toàn cầu của Nhật Bản từ 16% xuống 4% trong cùng kỳ, và sự suy giảm trong thị phần toàn cầu của Nhật Bản về giá trị gia tăng trong sản xuất từ 22% năm 1992 xuống còn 5% năm 2022. Số lượng các công ty Nhật Bản trong danh sách Fortune Global 500 đã giảm từ 149 vào năm 1995 xuống chỉ còn 41 công ty ở hiện tại.
Trẻ em tác động đến sức mua đáng kể vì việc chi tiền cho con cái là bản năng của các bậc phụ huynh. Tuy nhiên, chính sách một con của Trung Quốc đã dẫn đến việc có ít trẻ em hơn, làm giảm tỷ lệ phụ thuộc tổng thể.
Tương tự như vậy, cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đã làm giảm tỷ trọng hàng hóa Trung Quốc trong lượng hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ từ 22% vào năm 2017 xuống còn 13% trong bốn tháng đầu năm nay và con số này có thể sớm giảm xuống dưới 10%. Sản xuất đang chuyển dịch khỏi Trung Quốc. Thị trường Hoa Kỳ là không thể thay thế vì chỉ có Hoa Kỳ mới có thể chịu được thâm hụt lớn, vì đồng đô la là đồng tiền dự trữ của thế giới. Các quốc gia khác sẽ rơi vào khủng hoảng nợ nếu họ nhập khẩu nhiều từ Trung Quốc nhưng không xuất khẩu được số lượng tương đương.
Trong giai đoạn từ 1962 đến 1990, với trung bình 23,4 triệu ca sinh mỗi năm, Trung Quốc đã trở thành “công xưởng của thế giới.” Nhưng tính đến năm ngoái, ngay cả số liệu chính thức phóng đại của Trung Quốc cũng chỉ cho thấy 9 triệu ca sinh – và con số này dự kiến sẽ giảm xuống còn 6 triệu trong vài năm tới. Lao động di cư, chiếm 80% lực lượng lao động sản xuất của Trung Quốc, đang giảm dần và ngày càng già hóa, với độ tuổi trung bình tăng từ 34 tuổi vào năm 2008 lên 43 tuổi vào năm 2023, và tỷ lệ người trên 50 tuổi tăng từ 11% lên 31%. Tỷ lệ nhập học bậc đại học của Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản, và thế hệ trẻ không còn mặn mà với ngành sản xuất. Do đó, ngay cả khi không có chiến tranh thương mại, ngành sản xuất của Trung Quốc cũng đang đứng trước nguy cơ bị thu hẹp nhanh chóng, nhưng có lẽ không nhanh như của Nhật Bản, vì Trung Quốc có thị trường nội địa lớn hơn, chuỗi cung ứng và hệ sinh thái công nghiệp hoàn chỉnh hơn, và đang đầu tư mạnh vào trí tuệ nhân tạo và rô-bốt.
Trung Quốc đang chịu thâm hụt thương mại với các quốc gia như Ả Rập Saudi, Nga và Brazil do nhập khẩu dầu khí từ các quốc gia này. Nếu chính quyền Trung Quốc đủ khôn ngoan, họ nên giảm nhập khẩu các loại hàng hóa khác từ những quốc gia này để dành thị phần cho hàng hóa Mỹ, nhằm cân bằng lại thương mại Mỹ-Trung và tránh mất thị trường Mỹ. Quan trọng hơn hết, Trung Quốc cần tăng thu nhập hộ gia đình để tránh sự suy giảm nhanh chóng trong ngành sản xuất bằng cách thúc đẩy nhu cầu nội địa nhằm hấp thụ công suất dư thừa, đồng thời tăng nhập khẩu từ Hoa Kỳ để cân bằng thương mại và giảm bớt căng thẳng chính trị giữa hai cường quốc. Điều này cũng có thể mở rộng tầng lớp trung lưu, từ đó tái định hình một cách tích cực xã hội và nền kinh tế Trung Quốc, và quan trọng hơn cả là làm cho nền chính trị Trung Quốc trở nên tương thích hơn với nền dân chủ phương Tây.
Fuxian Yi là một nhà khoa học cao cấp trong lĩnh vực sản phụ khoa tại Đại học Wisconsin-Madison, và là tác giả của cuốn sách “Big Country with an Empty Nest” (Đất nước lớn với chiếc tổ trống), (Nhà xuất bản Phát triển Trung Quốc, 2013).
Nguồn: Fuxian Yi, “Chinese Overcapacity Is Shaping the World”, International Economy, Xuân 2024.
Biên dịch: Phong trào Duy Tân